Viêm gan (hepatitis) là tình trạng gan bị viêm mà nguyên nhân thường gặp nhất là do vi-rút gan (virus).
Những virus này lây nhiễm các tế bào gan, phải không? Một khi virus nhập vào trong tế bào gan một vài mảnh protein của virus được tế bào gan trình diện qua màng như những protein lạ và bất thường thông qua các phân tử phức-hợp tương-thích mô chính loại I (MajorHistoCompatibility Complex I) gọi tắt là MHC 1 cùng lúc đó, những tế bào miễn dịch xâm nhập vào gan và cố gắng tìm hiểu chuyện gì đang xảy ra và tế bào lympho T CD8+ nhận diện những phân tử protein bất thường như một dấu hiệu cho thấy tế bào gan đã hư hại nặng, vậy các tế bào gan sẽ bị tiêu hủy bởi tế bào T thông qua quá trình gây độc tế bào (cytotoxic) và trải qua quá trình chết rụng tiền-lập (apoptosis).
Những tế bào gan trải qua quá trình chết rụng tiền-lập đôi khi còn được goi là thể Councilman xuất hiện trên mẫu mô học trên đây.
và quá trình này thường diễn ra trong các mạch cửa (portal tracks) và trong các tiểu thùy của gan.
Dạng tiêu hủy tế bào gan bằng cách gây độc là cơ chế chính gây tình trạng viêm gan và cuối cùng dẫn tới tổn thương gan trong bệnh viêm gan do virus (virus hepatitis).
Khi viêm gan tiến triển, chúng ta sẽ thấy một vài triệu chứng điển hình do hệ miễn dịch đang mở rộng cuộc tấn công như sốt (fever), mệt mỏi (malaise), và buồn nôn (nausea).
Ngoài ra, bệnh nhân có thể có gan to (hepatomegaly – gan phình đại) vì gan của họ lớn bất thường do viêm, và nó có thể gây ra đau có phải không? Một khi gan ngày càng tổn thương men transaminases rò rỉ từ gan vào trong máu sẽ ngày càng tăng lên.
Ở trạng thái bình thường, các men transaminase này nằm bên trong gan, chúng có chức năng chuyển hoá phân giải nhiều loại amino acid khác nhau.
Thông thường lượng men amino transaminase huyết thanh – serum amino transaminases là khá thấp nhưng khi tế bào gan bị tổn thương các men này bắt đầu rò rỉ ra ngoài đi vào trong máu.
Vậy nên một dấu hiệu thường thấy là sự tăng cao lượng men alanine aminotransferase hay ALT và aspartate aminotransferase, hay AST.
mặc dù cả hai đều tăng nhưng thường thì ALT sẽ tăng cao hơn AST khi bị viêm gan do virus và ALT cũng sẽ là enzyme trở lại mức bình thường sau cùng.
Ngoài ra, số lượng tế bào lympho (có dạng) bất thường tăng cao (atypical lymphocytes) cũng thường thấy trong bệnh viêm gan do virut, đây cũng được biết là tình trạng tế bào lympho bất thường (atypical lymphocytosis) .
Những tế bào lympho này thường thì, rất lớn thậm chí khổng lồ, do sự kích thích từ các kháng nguyên trong trường hợp của chúng ta là từ các kháng nguyên virus viêm gan.
Bệnh nhân thường sẽ phát sinh tình trạng vàng da (jaundice) với sự kết hợp của cả hai dạng bilirubin đó là dạng liên-hợp (conjugated) và dạng bilirubin không liên hợp (unconjugated) tức là chưa được gan liên-hợp với glucoronic acid.
Các bilirubin liên-hợp thoát ra ngoài các tiểu-quản dẫn mật (bile ductules) bị hư hỏng khi tế bào gan chết đi các vách của các tiểu quản dẫn mật dẫn mật cũng bị hư hỏng theo.
Hơn nữa, vì những tế bào gan này đang chết dần gan mất dần khả năng tạo bilirubin liên-hợp có khả năng hòa tan trong nước và bilirubin không liên hợp cũng tăng theo.
Vì có cả hai bilirubin liên-hợp và không liên-hợp có trong máu một ít bilirubin liên-hợp hòa tan trong nước được lọc vào nước tiểu làm nước tiểu sậm màu hơn.
Một phát hiện thường gặp khác là sự tăng urobilinogen trong nước tiểu urobilinogen được sinh ra khi bilirubin bị khử (oxy) ở ruột bởi vi khuẩn đường ruột (intestinal microbes) thông thường, phần lớn các chất này được tái hấp thụ và vận chuyển trở lại gan để chuyển thành bilirubin hay mật.
Nhưng, một lần nữa.
nếu các tế bàogan không hoạt động bình thường, thì urobilinogen sẽ được chuyển hướng đến thận và bài tiết ra ngoài, kết quả là sẽ có nhiều urobilinogen hơn trong nước tiểu.
Nếu các triệu chứng tiếp diễn, hoặc virus, nằm lại gan hơn 6 tháng trong cơ thể viêm gan virut sẽ chuyển từ “cấp tính” đến “mạn tính”.
Vào thời điểm này, viêm phần lớn xảy ra tại mạch cửa (portal tract), và nếu viêm và xơ hóa tiếp tục xảy ra đây là một dấu hiệu khá xấu vì nó có thể tiến triển đến xơ (thẹo) gan sau (quá trình) hoại tử (postnecrotic cirrhosis).
Hiện nay, đã có năm loại virut viêm gan được biết đến, mỗi loại khác nhau (một ít) và có những đặc điểm riêng biệt.
Viêm gan A lây truyền qua sự tiêu thụ thực phẩm hoặc nước uống bị ô nhiễm, nói cách khác là đường phân-miệng (fecal-oral route) và khách du lịch được biết là hay mắc phải loại virus này Vi-rút viêm gan A (Hepatitis A virus) hay gọi tắt là HAV hầu như chỉ gây bệnh cấp tính, và về cơ bản không gây viêm gan A mạn tính.
Nếu nhìn vào các điểm chỉ dấu khám nghiệm huyết thanh kháng thể HAV-IgM cho biết có nhiễm trùng HAV đang hoạt động cấp tính, Trong khi chỉ dấu kháng thể HAV-IgG đó là một kháng thể bảo vệ biểu hiện giai đoạn đang phục hồi sau khi đã bị nhiễm HAV hay đã có tiêm phòng trước đây.
Vi-rút viêm gan E thực sự khá giống với HAV với cùng một đường lây truyền, đường miệng-phân, và thường bị mắc phải do ăn hải sản chưa nấu chín hoặc do nước bị ô nhiễm.
Nó cũng không gây viêm gan mạn tính và chỉ dấu khám nghiệm kháng thể HEV-IgM cho chúng ta biết rằng có nhiễm trùng đang hoạt động và chỉ dấu kháng thể HEV-IgG đó là kháng thể bảo vệ và đây là tín hiệu đang phục hồi, giống như HAV.
Hai sự khác biệt lớn cần lưu ý giữa hai loại virus này là (1) chỉ có vaccine tiêm phòng cho HAV nhưng không có vaccine tiêm phòng cho HEV Và (2) Nhiễm HEV ở phụ nữ mang thai có thể gây tình trạng nghiêm trọng và có thể dẫn đến suy gan cấp tính đôi khi còn được gọi là bộc phát suy gan cấp (fulminant hepatitis).
Tiếp đến là virus viêm gan C, bây giờ virus này được truyền qua đường máu do đó có thể truyền khi sinh con hay tiêm chích ma túy hay quan hệ tình dục không an toàn.
HCV thường tiến triển thành viêm gan mạn tính.
Và có một vài xét nghiệm mà chúng ta sử dụng để giúp chẩn đoán HCV Một là bằng xét nghiệm dùng phản ứng miễn dịch liên kết men xúc tác sắc ký (Enzyme-linked Immunosorbent assay) gọi tắt là ELISA.
Trong trường hợp này, chúng ta sẽ dò tìm kháng thể HCV-IgG.
Nếu phát hiện, nó không nhất thiết xác định sự nhiễm trùng cấp tính, mãn tính hoặc tình trạng nhiễm trùng đã qua khỏi.
Bởi vì nó không được coi là một kháng thể bảo vệ (protective antibody) giống như trường hợp virus gan A và E.
Phương pháp xác định đặc hiệu hơn là xét nghiệm ấn dấu điện phân tái tổ hợp miễn dịch (recombinant immunoblot assay) có thể giúp khẳng định sự hiện diện của HCV.
Tuy phương pháp xét nghiệm ấn dấu miễn dịch tái tổ hợp (recombinant immunoblot) đặc hiệu hơn nhưng lại kém nhạy hơn xét nghiệm miễn dịch liên kết men xúc tác sắc ký ELISA.
Về mặt lâm sàng, xét nghiệm ấn dấu miễn dịch tái tổ hợp không mang nhiều lợi ích vì dẫu cho xét nghiệm này dương tính cũng phải cần thêm một xét nghiệm bổ sung.
Phải thừa nhận rằng, tiêu chuẩn vàng để chẩn đoán virus gan loại C, HCV là xét nghiệm HCV RNA sử dụng PCR, hay còn gọi là phản ứng chuỗi men polymerase (Polymeranse chain reaction), phương pháp này có thể phát hiện vi rút rất sớm ngay sau khi nhiễm trùng xuất hiện 1 đến 2 tuần.
Về cơ bản nó phát hiện mức RNA virus trong máu cho chúng ta biết mức độ lưu hành của virus.
Nếu mức RNA bắt đầu giảm chúng ta biết rằng bệnh nhân đang hồi phục.
Nếu RNA vẫn giữ nguyên, bệnh nhân rất có thể đã mắc HCV mạn tính.
Bây giờ, hãy chuyển đề tài qua bệnh viêm gan B.
HBV cũng giống như HCV ở chỗ nó được truyền qua máu cũng bằng các con đường như sinh nở, tình dục không an toàn, và những con đường qua máu khác.
Tuy nhiên, chỉ 20% người nhiễm HBV sẽ mắc bệnh gan B mãn tính nhưng cũng phụ thuộc vào độ tuổi của người bệnh.
Ví dụ, trẻ em dưới 6 tuổi có nhiều nguy cơ nhiễm bệnh gạn B mạn tính, khoảng 50% và tỷ lệ này càng tăng khi độ tuổi người nhiễm virus B giảm dần xuống.
Ngoài ra, HBV mãn tính được biết là có liên hệ với ung thư gan (liver cancer) những nguy cơ do HBV có thể gây ra đòi hỏi chúng ta phải có sự hiểu biết về các chỉ dấu theo huyết thanh học.
Cũng như trong trường hợp viêm gan C Chúng ta có thể sử dụng nhiều phương pháp xét nghiệm, như PCR để tìm kiếm các điểm chỉ dấu nhất định, đặc biệt là các kháng nguyên HBV.
Và sự có mặt hay vắng mặt của mỗi chỉ dấu tại từng thời điểm khác nhau có thể cho chúng ta phân biệt một vài điều.
Vì vậy, điểm chỉ dấu then chốt khi nhiễm HBV là kháng nguyên bề mặt (surface antigen) và tên này có thể xem như đại ác nhân trong câu chuyện này và ác nhân này sống trên bề mặt của virus.
Ở đây, chúng ta có thể gọi tắt là HBsAg (HB surface antigen) có nghĩa là kháng nguyên bề mặt viêm gan do virus B.
Một chỉ dấu khác là kháng nguyên lõi (core antigen) có nghĩa là các kháng nguyên này có trong lõi của virut, HBcAg.
Hãy nghĩ những tên này giống như những tay sai không đáng quan tâm trong công xưởng xấu xa của đại ác nhân HBsAg.
Cuối cùng còn có một loại kháng nguyên khác gọi là e-Antigen (HBeAg), được tiết ra bởi các tế bào nhiễm bệnh và như vậy là điểm chỉ dấu cho thấy nhiễm trùng đang hoạt động.
HbeAg giống như sản phẩm phụ của công xưởng cùng với DNA của virus chúng cho ta biết rằng nó đang sao chép nhân rộng và lây lan.
Được rồi, vậy khi bắt đầu nhiễm trùng, trong giai đoạn cấp tính, tên đại ác nhân kháng nguyên bề mặt HBsAg của chúng ta chắc chắn sẽ có mặt, cho kết quả xét nghiệm dương tính, và công xưởng của nó sẽ bơm ra hàng loạt virus DNA cùng với HbeAg.
Vào lúc này, hệ miễn dịch tạo ra kháng thể IgM chống lại các kháng nguyên lõi, chống lại tên tay sai HBcAg vì vậy có thể xem những kháng thể này giống như lực lượng cảnh sát nòng cốt chống lại đám tay sai.
Những kháng thể này đã tấn công vào các kháng nguyên cốt lõi.
Tuy thực sự đã cố gắng hết sức mình, nhưng để có thể thực sự đánh bại con virus này điều cần thiết là tấn công tên đại ác nhân, phải không? Chúng là các kháng nguyên bề mặt, HBsAg.
Do đó, chúng ta cần một siêu nhân (anh hùng).
Như thế, trong câu chuyện này, kháng thể IgG đặc hiệu cho kháng nguyên bề mặt là siêu nhân của chúng ta.
Vào thời điểm này, cơ thể vật chủ bước vào một giai đoạn mờ ảo gọi là một khung tiềm ẩn.
Khi đó, chúng ta không thể phát hiên được đại ác nhân HBsAg hay siêu nhân IgG đặc hiệu.
Bởi vì số lượng cả hai đều quá thấp, và giai đoạn này có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng giống như cuộc chiến đang diễn ra nhưng chưa ngã ngũ ai sẽ chiếm phần thắng.
Thứ duy nhất bạn có thể phát hiện trong giai đoạn này là kháng thể lõi IgM, lực lượng cảnh sát.
Vào lúc này, có hai khả năng có thể xảy ra, nếu siêu nhân chiến thắng, các kháng thể IgG đánh bại kháng nguyên bề mặt, thế thì chúng ta rất may mắn, vì nó có nghĩa là cơ thể đã thoát khỏi nguy hiểm và (chúng ta chiến thắng).
Khả năng còn lại là tên đại ác nhân sẽ chiến thắng và kháng nguyên bề mặt vẫn còn được phát hiện lại lần nữa, Có thể có sự hiện diện của HBV DNA và HBeAg bởi vì nó bây giờ đang sao chép và công xưởng virus đã hoạt động trở lại điểm quan trọng đó chính là sẽ không còn có IgG, siêu nhân cho kháng nguyên bề mặt nữa.
Bất kể ai thắng, các kháng thể IgM, lực lượng cảnh sát, cũng sẽ được thăng chức thành IgG vào khoảng sáu tháng sau đó.
Nhưng điều này không có nghĩa là cơ thể vật chủ được bảo vệ.
Vì vậy điều quan trọng cần lưu ý, đó là chúng ta cần siêu nhân kháng thể IgG cho kháng nguyên bề mặt giành chiến thắng mặc dù chúng ta có thể có kháng thể IgG lõi mà vẫn thua.
Nếu trận đánh thất bại, cơ thể vật chủ chuyển sang tình trạng bệnh viêm gan mãn tính do virut, định nghĩa bởi (tình trạng bệnh) sau 6 tháng.
Khi bị bệnh mãn tính, người bệnh có thể trông như vẫn khỏe mạnh vẫn sẽ có hiện diện của kháng nguyên bề mặt, kháng thể lõi, nhưng không có virus DNA hoặc kháng nguyên HBeAg về cơ bản kẻ đại ác nhân vẫn ở đó, chỉ là nó đang không sao chép và tại thời điểm này người bệnh có thể truyền nhiễm virus trực tiếp cho người khác nhưng với nguy cơ thấp hơn.
Một tình huống khác là chúng mang tính nhiễm bệnh có nghĩa là toàn bộ lực lượng ác nhân đang hoạt động cùng với một lực lượng cảnh sát áp đảo mạnh hơn.
Tình trạng này làm tăng nguy cơ xơ gan sau hoại tử (postnecrotic cirrhosis) và gây ung thư tế bào gan (hepatocellular carcinoma).
Một cách để có thể tránh được sự thảm bại này là chủng ngừa (immunization) đó là bỏ qua các bước trên đi thẳng tới các siêu nhân kháng thể IgG chống kháng nguyên bề mặt HBsAg.
Như vậy, sau cùng nhưng không kém phần quan trọng, là Vi-rút viêm gan D.
nó khá độc đáo ở chỗ là nó cần sự hiện diện của HBV có nghĩa là nó chỉ có thể lây sang người khác chỉ khi người đó cũng đang nhiễm HBV.
Nếu cả hai HDV và HBV lây nhiễm cùng một lúc, thì gọi đồng nhiễm (co-infection) nếu HDV nhiễm sau HBV, thì gọi là nhiễm siêu bội (superinfection) được cho là có phần nghiêm trọng hơn nhiều so với tình trạng đồng nhiễm (co-infection).
Nếu có kháng thể IgM hoặc IgG hiện diện thì cho biết rằng đang có nhiễm trùng hoạt động.
Vì vậy, trong trường hợp này IgG không phải là một kháng thể bảo vệ.
Như thế, trên đây là tổng quan rất ngắn gọn về bệnh viêm gan do virus.
.