Trong giai đoạn cuối thời Chiến Quốc, Tần nổi lên như một thế lực mạnh nhất trong số bảy nước chư hầu còn sót lại.
Năm 238 TCN, sau 9 năm lên ngôi, Tần vương Doanh Chính chính thức nắm giữ thực quyền tối cao ở Tần sau khi loại bỏ các phe phái chính trị nắm giữ quyền hành lớn trong triều trước đó như thừa tướng Lã Bất Vi hay Lao Ái.
Dưới sự giúp sức của các cận thần như Úy Liêu, Lý Tư, và nhiều danh tướng tiêu biểu như Vương Tiễn, Vương Bí, Mông Ngao, Mông Vũ, Mông Điềm, Doanh Chính đã lên kế hoạch tấn công các nước chư hầu nhằm mục đích thống nhất toàn cõi Trung Hoa.
Chiến lược đặt ra là tiêu diệt lần lượt từng nước chư hầu, với phương châm “viễn giao cận công” (giao hảo với nước ở xa, tấn công những nước ở gần”.
Cụ thể, Tần đặt liên minh với Tề và Yên là hai nước ở phía đông không có chung biên giới với Tần; tạm thời hoà hoãn với Nguỵ, Sở và tấn công Hàn, Triệu.
Hàn là nước nhỏ nhất trong 7 nước thời Chiến quốc, trong lịch sử Hàn từng chịu đựng nhiều cuộc tấn công từ Tần khiến đất nước càng trở nên yếu ớt.
Năm 234 TCN, Tần lên kế hoạch tấn công Hàn, nhưng sau khi nhận thấy Triệu có ý hỗ trợ Hàn, Tần quyết định cử Hoàn Xỉ dẫn quân đánh Bình Dương và Vụ Thành của nước Triệu.
Hơn 10 vạn quân Triệu bị diệt, tướng Triệu là Hỗ Triếp tử trận.
Lúc này, nước Hàn cũng đã chính thức hết hy vọng cứu vãn vận mệnh của mình.
Năm 230 TCN, 10 vạn quân Tần tấn công vào kinh đô Dương Địch của Hàn, vua Hàn là Hàn vương An đầu hàng và bị ngũ mã phanh thây.
Tần vương Chính đặt đất đai còn lại của nước Hàn làm quận Dĩnh Xuyên.
Năm 236 TCN, lợi dụng thời cơ Triệu tấn công Yên, lấy cớ cứu Yên, Tần cử hai đạo quân, đạo thứ nhất do Vương Tiễn và đạo thứ hai do Hoàn Xỉ và Dương Đoan Hòa chỉ huy tấn công Triệu.
Kết quả của cuộc tấn công là Tần chiếm được 9 thành của Triệu và khiến sức mạnh quân đội Triệu suy yếu trầm trọng.
Tần mất 10 vạn quân còn tướng Hoàn Xỉ chạy trốn sang Yên để tránh bị vua Tần trừng phạt .
Quân Triệu thắng nhưng cũng chịu tổn thất nặng nề và phải rút lui để bảo vệ kinh đô Hàm Đan.
Năm 232 TCN, quân Tần lại chia hai đường tấn công vào Triệu, nhưng lần này thất bại trước quân Triệu dưới sự chỉ huy của Lý Mục.
Tần mất 10 vạn quân còn tướng Hoàn Xỉ chạy trốn sang Yên để tránh bị vua Tần trừng phạt .
Quân Triệu thắng nhưng cũng chịu tổn thất nặng nề và phải rút lui để bảo vệ kinh đô Hàm Đan.
Trong vài năm tiếp theo, Triệu hứng chịu liên tiếp 2 thiên tai là động đất và mất mùa làm tình hình trong nước càng thêm khó khăn.
Năm 229 TCN, Tần lợi dụng tình hình này đem quân đánh Triệu.
Ba cánh quân Tần do Vương Tiễn, Khương Hội và Dương Đoan Hoà tấn công áp sát kinh đô Hàm Đan.
Lý Mục chỉ huy quân Triệu phòng ngự, đóng trại ở Phì lũy, giữ vững không đánh.
Quân Tần không sao tấn công được.
Tần mới tìm kế sai người đút lót cho thừa tướng Triệu là Quách Khai, khiến Quách Khai dèm pha với vua Triệu là Lý Mục có ý giảng hoà với Tần, hẹn ngày phá Triệu rồi sẽ làm vua riêng ở đất Đại.
Vua Triệu tin lời bèn mời Lý Mục về kinh và cử Triệu Thông ra thay.
Lý Mục từ chối, vua Triệu càng tin là ông có ý làm phản, cho người đem bắt về kinh.
Lý Mục biết được tin tìm đường trốn sang Nguỵ nhưng chưa kịp thì bị bắt lại và giết Triệu Thông lên thay Lý Mục, Nhan Tụ làm phó.
Quân Tần biết Lý Mục đã bị thay liền phát động tấn công quân Triệu không chống nổi, Triệu Thông tử trận còn Nhan Tụ đem tàn quân chạy về Hàm Đan.
Quân Tần vây kín Hàm Đan, 7 tháng sau thì hạ được thành, bắt sống Triệu vương Thiên.
Nước Triệu mất từ đó.
Lúc Hàm Đan thất thủ, Triệu Gia, anh cùng cha khác mẹ của Triệu vương Thiên, không chịu đầu hàng quân Tần mà cùng với vài trăm quý tộc nước Triệu bỏ chạy lên đất Đại ở phía bắc.
Ông tự xưng là Đại vương, sai sứ sang nước Yên liên minh với Yên vương Hỉ và thái tử Đan, đóng quân ở Thượng Cốc, tiếp tục chống Tần.
Năm 222 TCN, nước Đại bị quân Tần do Vương Bí chỉ huy diệt, Đại vương Gia bị quân Tần bắt.
Không chịu nhục, ông bèn tự sát.
Năm 225 TCN, 10 vạn quân Tần dưới sự chỉ huy của Vương Tiễn tấn công Nguỵ, Nguỵ vương Giả cầu cứu Tề, nhưng tướng quốc nước Tề là Hầu Thắng ăn hối lộ của Tần nên khuyên vua Tề đừng cứu Nguỵ.
Quân Tần tấn công kinh đô Đại Lương của Nguỵ Đại Lương là một toà thành nằm ở hợp lưu hai sông Hoàng Hà và Biện Hà, địa hình dễ thủ khó công.
Toà thành được bao bọc hoàn toàn bởi các đoạn hào sâu, toàn bộ 5 cửa thành đều sử dụng cầu kéo nên việc tấn công thành trở nên càng khó khăn.
Vương Bí nghĩ ra kế dẫn nước hai sông Hoàng Hà và Biện Hà, đắp đê ngăn ở hạ lưu nhằm làm ngập thành.
Quân Tần đào đường dẫn nước trong 3 tháng thì xong, lại được dịp trời mưa to trong mười ngày liên tiếp, thế nước ào ạt, thành Đại Lương ngập lụt hoàn toàn khiến hơn 10 vạn người chết.
Nhiều đoạn thành bị lở, quân Tần theo đó mà xâm nhập.
Nguỵ vương và quần thần đang viết biểu xin đầu hàng thì quân Tần tới nơi, đem bắt bỏ lên xe tù đưa về Hàm Dương.
Nước Nguỵ mất từ đó, Nguỵ vương Giả trên đường về Hàm Dương gặp bệnh chết giữa đường.
Năm 224 TCN, Tần vương triệu tập cuộc họp bàn kế hoạch đánh Sở và hỏi các tướng cần bao nhiêu quân.
Lý Tín xin 20 vạn trong khi Vương Tiễn nói cần phải có 60 vạn quân mới đủ.
Doanh Chính cho rằng Vương Tiễn đã già nên quá cẩn trọng nên đặt niềm tin vào sức trẻ của Lý Tín, giao cho Tín 20 vạn quân, và cử Mông Điềm làm phó tướng.
Vương Tiễn xin từ chức vì tuổi cao và bệnh tật.
Quân Tần khởi đầu thuận lợi với chiến thắng của Lý Tín ở Bình Dư (Hà Nam ngày nay) và Mông Điềm ở Lâm Tuyền (Phụ Dương, An Huy ngày nay).
Quân Tần sau đó chạm trán quân Sở do Hạng Yên chỉ huy.
Quân Sở chủ động tránh chạm trán với quân chủ lực của Tần và chờ đợi cơ hội phản công.
Cùng thời gian này, Xương Bình quân, vốn là quý tộc nước Sở, lúc đó đang làm thừa tướng nước Tần, đã phản bội Tần và chiếm một thành ở gần nơi đóng quân của Lý Tín.
Hạng Yên cho quân bám sát quân của Lý Tín trong 3 ngày 3 đêm liên tục trước khi bắt đầu một trận tập kích.
Cùng lúc đó, Xương Bình quân đánh úp từ phía sau khiến quân Lý Tín trở tay không kịp, thua to bỏ chạy.
Quân Sở truy kích 3 ngày 3 đêm, giết 7 viên đô uý và hầu hết binh lính của Tần.
Tần vương cách chức Lý Tín và thân chinh đến yết kiến Vương Tiễn, xin lỗi vì đã không nghe lời khi trước và mời Vương Tiễn quay lại đánh Sở báo thù.
Tần vương cấp đúng 60 vạn quân như Vương Tiễn yêu cầu, cử thêm Mông Vũ làm phó tướng.
Vương Tiễn sợ rằng Tần vương thấy mình xin nhiều quân quá sẽ có ý nghi ngờ nên liên tục gửi thư cho vua Tần xin cấp bổng lộc và phong đất cho họ hàng gia đình, cốt để Tần vương yên rằng mình sẽ quay trở lại.
Năm 224 TCN, quân Vương Tiễn vào Sở, cắm trại ở núi Thiên Trung.
Quân Sở do Hạng Yên chỉ huy dồn sức tấn công nhưng Vương Tiễn thủ chặt không ra đánh.
Mặc cho quân Sở tìm mọi cách khiêu khích, quân Tần vẫn chỉ đóng chặt cổng nhất định không đánh.
Cứ như vậy hơn một năm, Hạng Yên chán nản cho rằng Vương Tiễn đã già và sợ không dám đánh nên rút quân về.
Vương Tiễn nhận thấy thời cơ cho một đợt phản công bất ngờ đã tới, tuyển chọn những binh sĩ khoẻ nhất tập kích quân Sở.
Quân Tần được nuôi sức lâu ngày hăng máu đánh mạnh, quân Sở lại bị bất ngờ nên thua to, bị đánh đuổi tới tận Hồ Bắc, Hạng Yên tử trận.
Năm 223 TCN, quân Tần tấn công vào kinh đô Thọ Xuân của Sở, bắt sống Sở vương Phụ Sô.
Năm sau đó, Vương Tiễn và Mông Vũ cho quân tấn công đất Ngô, Việt, bắt sống nốt những thành viên quý tộc Sở còn sót lại.
Nước Sở mất từ đó.
Năm 227 trước công nguyên, quân Tần do Vương Tiễn chỉ huy đóng tại Trung Sơn , chuẩn bị tấn công vào Yên Trước tình hình đó , Thái tử Đan người từng có một thời gian làm con tin ở Tần nóng lòng muốn báo mối thù khi xưa , Tần Vương Doanh Chính không đồng ý thả m về nước , khiến mình phải trốn về đã cử Kinh Kha làm thích khách ám sát Tần Vương Vụ mưu sát thất bại, Tần Vương càng có cớ để đẩy nhanh xâm lược Yên Năm 227 trước công nguyên, quân Tần do Vương Tiễn chỉ huy và Mông Vũ làm phó tướng tấn công Yên.
Quân yên thua to, quân Tần áp sát kinh đô Kế thành của Yên (Bắc Kinh ngày nay), Yên vương Hỉ và Thái tử Đan bỏ chạy sang Liêu Đông.
Vương Tiễn gặp bệnh xin từ chức, Lý Tín xuất hơn 1000 quân truy đuổi, diệt một số lượng lớn quân Yên.
Vua Yên cầu cứu vua Đại là Gia, Đại vương trả lời khuyên Yên vương nên giết Thái tử Đan để tạ tội với Tần.
Yên vương phải giết thái tử Đan (người đã ra lệnh cho Kinh Kha ám sát Doanh Chính), dâng thủ cấp để cầu hòa.
Quân Tần chấp nhận lời cầu hòa và không xâm lược Yên trong vòng 3 năm tiếp theo.
Năm 222 trước công nguyên, Vương Bí chỉ huy quân Tần tấn công vào Liêu Đông tiêu diệt tàn dư quân Yên, bắt sống Yên vương Hỉ, đánh dấu chấm hết cho sự tồn tại của Yên.
Năm 221 trước công nguyêntrước công nguyên, Tề là nước duy nhất còn lại chưa bị Tần chinh phục.
Tề vương lúc này mới lo lắng, điều quân sang trấn giữ phía Tây.
Tần vương lấy cớ một lần Tề vương cự tuyệt sứ thần không tới gặp mặt để làm lý do tấn công Tề, gửi thư cho Vương Bí vừa mới diệt xong Yên và Đại ở phía Bắc tấn công thẳng vào Tề.
Quân Tề 40 năm không tham chiến nên yếu ớt, sĩ khí cực thấp, dân chúng thì đã quen cảnh thanh bình, vừa thấy mấy chục vạn quân của Tần kéo tới là bỏ chạy hết.
Quân Tần cứ thế kéo thẳng tới kinh đô Lâm Truy của Tề (nay là Truy Bác, Sơn Đông) mà hầu như không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào.
Vương Bí và Lý Tín không phải động binh đã lấy được hết đất Sơn Đông.
Tề vương Kiến không chống trả mà mang cả gia quyến ra hàng.
Nước Tề mất, Trung Hoa hoàn toàn thống nhất dưới trướng Tần vương.
Năm 221 trước công nguyên, sau khi tiêu diệt Tề, Tần vương Doanh Chính trở thành vị vua duy nhất của toàn cõi Trung Hoa.
Doanh Chính sau đó xưng là Hoàng Đế, đặt hiệu là Thuỷ Hoàng đế (Hoàng đế khởi thuỷ của Trung Hoa) và thành lập nhà Tần.
năm 210 trước công nguyên , Tần Thủy Hoàng qua đời , con trai thứ 2 của Tần Thủy Hoàng là Tần Nhị Thế lên ngôi nhưng bất tài, lại bị Triệu Cao và Lý Tư thao túng quyền lực càng làm nước Tần rối ren thêm, cuộc khởi nghĩa nông dân dưới sự lãnh đạo của Trần Thắng và Ngô Quảng nổ ra do sự hà khắc trong chính sách cai trị của nhà Tần, kéo theo đó là một loạt các cuộc khởi nghĩa ở khắp nơi , cùng với đó là sự trỗi dậy mạnh mẽ của các hậu duệ của tầng lớp quý tộc của 6 nước cũ khiến nhà Tần ngày càng suy yếu .
Năm 206 trước công nguyên, sau khi quân đội của Lưu Bang tiến vào Hàm Dương, vị vua thứ ba của Tần là Tần Tử Anh bị Hạng Vũ giết, nhà Tần sụp đổ.
Mặc dù nhà Tần chỉ tồn tại trong vòng 16 năm ngắn ngủi , nhưng nó đã để lại những ảnh hưởng và tác động sâu sắc tới lịch sử Trung Hoa trong hàng nhiều thế kỷ sau đó.
.